“Đặt tên” cho nông sản Việt Nam
Tuy nhiên, việc cấp và quản lý mã số vùng trồng là yêu cầu chính đáng của thị trường và người tiêu dùng hiện nay, nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm của từng loại nông sản.
Mã vùng trồng – Một bước tiến mới trong nông nghiệp
Thời gian qua, nông sản Việt Nam (gạo, cà phê, trái cây …) đã từng bước chiếm lĩnh thị trường thế giới, từng bước khẳng định thương hiệu trên thị trường. Tuy nhiên, việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm vẫn còn nhiều khó khăn đối với cơ quan quản lý, nước nhập khẩu và người tiêu dùng.
Việc cấp và quản lý mã vùng trồng ra đời nhằm phục vụ yêu cầu truy xuất nguồn gốc nông sản chính xác, khách quan. Mã vùng trồng được gắn với từng hộ gia đình, hợp tác xã (các cơ sở chế biến, sơ chế, đóng gói cũng sẽ có mã số riêng), từ đó góp phần quyết định chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. sản phẩm của từng loại nông sản; gắn trách nhiệm của từng hộ nông dân sản xuất. Việc cấp và quản lý mã số vùng trồng cho các sản phẩm nông nghiệp là yêu cầu chính đáng của thị trường (cả xuất khẩu và tiêu thụ nội địa) và người tiêu dùng.
Ông Huỳnh Văn Bé, một nông dân ở huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận tâm sự: “Trước đây, nông dân chúng tôi không hiểu mã vùng trồng là gì, qua nghiên cứu, giải thích của cán bộ địa phương, chúng tôi mới hiểu rằng việc cấp mã vùng trồng sẽ gắn trách nhiệm của từng hộ nông dân khi sản xuất nông sản, đồng thời tránh tình trạng nông sản thật, giả lẫn lộn chất lượng ”.
Ông Hà Tấn Khoa, Giám đốc Công ty cổ phần Bằng Bình (huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận), một trong những doanh nghiệp trồng thanh long với quy mô khoảng 900 ha cho biết: “Hiện nay khách hàng quan tâm đến thanh long nhiều hơn. . Vấn đề chất lượng, truy xuất nguồn gốc nông sản.Khi doanh nghiệp đăng ký mã số vùng trồng thì khách hàng sẽ truy xuất được nguồn gốc, từ đó yên tâm mua hàng, công ty chúng tôi đã đăng ký mã số vùng trồng qua mạng khá tiện lợi. , tiết kiệm thời gian và công sức khi làm thủ tục đăng ký.
Hiện nay, ở nhiều địa phương đã hình thành các vùng sản xuất có sự liên kết chặt chẽ giữa nông dân, hợp tác xã, nhà máy chế biến, doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm, trong đó, nhiều vùng đã được cấp mã số. bộ định danh để giám sát, kiểm soát sản xuất, truy xuất nguồn gốc, nâng cao chất lượng nông sản, như: Lúa gạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long; cà phê, chanh leo Tây Nguyên; thanh long ở Bình Thuận; nhãn, vải ở Hải Dương, Bắc Giang, Hưng Yên, Sơn La; na ở Lạng Sơn …
Chuyển từ sản xuất sang kinh tế nông nghiệp
Trên thực tế, việc cấp, gắn mã vùng trồng còn manh mún, nhỏ lẻ ở một số địa phương, chưa kết nối đầy đủ thông tin giữa sản xuất và thị trường. Điều này đòi hỏi phải đẩy nhanh quá trình chuyển đổi kỹ thuật số các lĩnh vực cây trồng; Trước mắt, cần tập trung xây dựng cơ sở dữ liệu các cấp, quản lý mã vùng trồng thanh long, lúa và một số cây trồng chủ lực khác để kết nối, nâng cao hiệu quả giữa sản xuất, thị trường và người dân. sự tiêu thụ.
Để đẩy mạnh việc cấp mã vùng trồng cho các sản phẩm nông nghiệp, mới đây, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN & PTNT) đã tổ chức triển khai hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu cấp và quản lý mã vùng trồng.
Theo đó, khi Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu cấp và quản lý mã số vùng trồng đi vào hoạt động sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho cả cơ quan quản lý, doanh nghiệp và nông dân, như: Theo dõi, kiểm soát tình hình sản xuất; kiểm soát chất lượng sản phẩm tại nguồn; truy xuất nguồn gốc sản phẩm thực vật; hỗ trợ và kết nối thị trường tiêu thụ sản phẩm; tư vấn, hỗ trợ kỹ thuật nuôi …
Cơ quan quản lý sẽ trực tiếp chỉ đạo sản xuất nhanh chóng, kịp thời. Đến thời điểm này, hệ thống cấp và quản lý mã số vùng trồng đã được xây dựng trên phiên bản web và ứng dụng di động với các phân hệ dành cho cơ quan quản lý, cán bộ thẩm tra và người dân đăng ký. Bước đầu, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chọn cây thanh long để triển khai thí điểm.
Thứ trưởng Bộ NN & PTNT Phùng Đức Tiến khẳng định: Triển khai hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu vùng trồng là bước tiến mới trong nông nghiệp, chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp. Ngoài sản xuất và quản lý chất lượng, nguồn gốc, xuất xứ là yêu cầu quan trọng của tất cả các thị trường. Làm được điều này, đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp sẽ thực chất và chất lượng hơn.
Có thể khẳng định, việc xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu, cấp và quản lý mã vùng trồng trọt có ý nghĩa quan trọng trong việc “gọi tên”, nhận diện hàng nông sản Việt Nam, góp phần tạo dựng niềm tin. , khẳng định thương hiệu chất lượng nông sản Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế.
Đồng thời, lợi ích kinh tế mang lại cho nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp là rất lớn. Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu cấp và quản lý mã số vùng trồng do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn triển khai mới đây là dấu mốc quan trọng, là bước tiến quan trọng trong việc xây dựng nền tảng dữ liệu số nông nghiệp. Qua đó, từng bước đổi mới công tác quản lý nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế.
Bài và ảnh: NGUYỄN KIỆM