Sơn mài là chất liệu hội họa độc đáo của Việt Nam
Có những thời điểm sơn mài đứng ở vị trí hàng đầu, đi trước trong nghệ thuật tạo hình của nước ta. Họa sĩ Tô Ngọc Vân trong một buổi thuyết trình năm 1948, tại Chiến khu Việt Bắc, đã đưa ra khái niệm: “Danh từ sơn mài là danh từ mới được đặt ra cách đây mười năm để chỉ một kỹ thuật trước đây gọi là sơn ta nhưng đã bị biến tướng hoàn toàn. nghệ thuật của sơn mài ”.
Có nhiều tài liệu ghi lại rằng ông tổ của nghề làm tranh Việt Nam là Trần Tướng Công (tức Trần Lữ, sinh năm 1470), từng là sứ nước ngoài, đã học nghề làm tranh và truyền lại cho dân làng Bình Vọng ( nay thuộc xã Vân). Bình, huyện Thường Tín, TP. Hà Nội). Tuy nhiên, kết quả khai quật khảo cổ học từ các ngôi mộ ở Hải Phòng, Hà Nội, Hải Dương cho thấy tranh đã xuất hiện ở Việt Nam từ trước. Có thể thấy, kỹ thuật sơn, mạ vàng trên các pho tượng và điêu khắc Phật giáo đã được đề cập từ thời Lý (thế kỷ 11 – 12) và trở thành truyền thống kéo dài cho đến ngày nay.
Các nghệ nhân Việt Nam thời xưa có kỹ thuật cắt, bó hoặc pha sơn và vecni, biết vẽ và tạo hoa văn trang trí, biết sơn nổi và chạm khắc. Tuy nhiên, nghề sơn mới chỉ dừng lại ở mức phục vụ điêu khắc (đắp tượng), hoặc vẽ trang trí các đồ vật cung đình, đồ thờ cúng dân gian. Những bức tranh vẽ sớm nhất mà chúng ta có thể tìm thấy ngày nay bao gồm một số bức chân dung của vua Lý Nam Đế và hoàng hậu của ông (một bức hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và bức còn lại ở Văn Miếu). Hải Thôn, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình), bộ tranh thiếu nữ (2 bức, mỗi bức vẽ 4 nhân vật thổi sáo, thổi sáo) ở đình Lỗ Hạnh (Bắc Giang). có niên đại cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Điểm chung ở các tác phẩm này là các nhân vật đều được thể hiện trên nền son đỏ. Màu sắc chủ đạo được sử dụng là đen, đỏ, mạ vàng, xanh lá cây, xanh lam đậm (gần với màu chàm hơn), trắng ngà,… Phong cách vẽ màu đơn giản, không bị ám và tách rời nhau. sạch sẽ, hình dạng trang trí.
Mãi đến đầu thế kỷ 20, khi Trường Mỹ thuật Đông Dương ra đời, với chủ trương tôn trọng truyền thống bản địa mà vẫn đáp ứng nhu cầu hiện đại, Hiệu trưởng Victor Tardieu đã cho phép họa sĩ Joseph Inguimberty và các học trò của mình tìm hiểu, nghiên cứu, khôi phục và cải tiến. kỹ thuật sử dụng sơn, để biến nó thành chất liệu vẽ tranh và dạy nó trong trường học. Từ kỹ thuật sơn mài đặc trưng, cái tên sơn mài ra đời.
Để thể hiện một tác phẩm sơn mài, nghệ sĩ cần chuẩn bị các bản phác thảo màu và phác thảo trên giấy. Vẽ các đường kết cấu trong đường viền, sau đó tô, vẽ các chi tiết của hình ảnh trước, sau đó quét nền sau cùng. Ví dụ, để vẽ một bụi tre, đầu tiên người nghệ sĩ sẽ phải cắt tỉa từng lá và thân cây tre. Để lớp sơn này khô hoàn thiện, sau đó sơn toàn bộ mảng bụi tre. Sơn xong toàn bộ khóm tre, đợi sơn khô rồi mới sơn tiếp nền trời đất, có thể phủ cả bụi tre (đã sơn hai lớp màu trước đó). Sau khi sơn khô, dùng đá mài, than mài hoặc giấy nhám thấm nước mài tranh, mài bề mặt tranh cho phẳng. Khi mài lớp màu bên trên mỏng hơn, chúng ta sẽ thấy lớp màu bên dưới dần hiện ra, lộ ra những chi tiết đã vẽ ban đầu. Bức tranh sẽ được thực hiện nhiều lần, kiên trì cho đến khi bề mặt tranh đạt được hiệu ứng như mong muốn của họa sĩ. Bước cuối cùng để hoàn thiện bức tranh là đánh bóng.
Về chất liệu, ban đầu các nghệ nhân bị giới hạn bởi các màu truyền thống, bao gồm: màu cánh gián, đỏ son (là loại bột son đỏ làm từ khoáng chất thần sa), sau đó là (màu đen tuyền). sơn đen), vàng, bạc, vỏ trai, vỏ trứng. Sau đó, qua nhiều lần nghiên cứu, thử nghiệm, với những tiến bộ trong pha sơn, phương pháp gắn vỏ trai, vỏ trứng rồi phủ màu cánh gián, phủ màu dày, mỏng tạo độ đậm, nhạt, xa, gần, kỹ thuật sơn chìm, đắp nổi. Kỹ thuật sơn, sử dụng bột vàng (quỳ vàng nghiền mịn), bột bạc (quỳ bạc nghiền mịn) rắc lên sơn ướt để tạo độ hòa sắc và nhiều màu sắc khác nhau trên bề mặt. bức tranh. Đặc biệt, sự xuất hiện của titan trắng có khả năng hòa trộn với sơn đã mở ra nhiều khả năng cho bảng màu của tranh sơn mài.
Tranh sơn mài ở Việt Nam phát triển trên cơ sở kế thừa và cách tân kỹ thuật truyền thống. Việc nghiên cứu và tìm hiểu luật tạo hình của các nước khác, chủ yếu là nghệ thuật thị giác Châu Âu (luật không gian xa, gần, bố cục và dựng hình) liên quan đến hội họa. Trung Quốc và Nhật Bản cũng như tôn trọng truyền thống làm tranh truyền thống của dân tộc, là những yếu tố cơ bản tạo nên một phong cách sơn mài Việt Nam độc lập, đã đạt được nhiều thành tựu và được thế giới công nhận. Nhiều tác phẩm sơn mài đã trở thành tài sản quý của dân tộc. Trong tổng số tám bức tranh được công nhận là bảo vật quốc gia, sáu bức được vẽ bằng sơn mài.
Những người đầu tiên tham gia vào lĩnh vực sơn mài là Trần Quang Trân, Lê Phổ, Phạm Hậu, Nguyên Khang… Nhưng về cơ bản, kết quả bước đầu vẫn chưa tách khỏi mảng trang trí mỹ thuật vì kỹ thuật chưa ra đời. phát triển, xây dựng. Khoảng năm 1935-1945, chất liệu tranh sơn mài được ứng dụng rộng rãi, nhiều họa sĩ chuyển sang vẽ tranh sơn mài. Đã tìm cách tạo ra các lớp không gian và thay đổi sắc thái trên tranh sơn mài, các họa sĩ đang miệt mài tìm cách thể hiện cảm xúc và cách diễn đạt hiện thực. Nguyễn Gia Trí là người thành công nhất. Chỉ sử dụng các loại màu truyền thống nhưng nhờ khả năng điều tiết và giảm lượng cánh gián, kỹ thuật nhào, vùi, sau đó mài ra vàng bạc là những loại màu mà trước đây chỉ có sử dụng. trang trí mảng phẳng, nay có chiều sâu mảng, khối, nét có thanh, đậm, xa, gần… Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Gia Trí như: “Rặng tre thôn quê”, “mặt tiền”, “Vườn xuân miền Trung. Nam và Bắc “,” Bên hồ Hoàn Kiếm “…
Trong kháng chiến chống Pháp, điều kiện làm sơn mài còn nhiều khó khăn, nhưng nhiều nghệ nhân vẫn nghiên cứu, khắc phục tình trạng khan hiếm nguyên liệu và cho ra đời những tác phẩm hay. Trong thời kỳ hòa bình ở miền Bắc, sáng tác sơn mài bùng nổ với những tác phẩm chất lượng. Những bức tranh sơn mài trưng bày tại Triển lãm Mỹ thuật các nước xã hội chủ nghĩa ở Mátxcơva (Liên Xô) năm 1958 đã thu hút nhiều sự chú ý và được bạn bè quốc tế khen ngợi. Hàng loạt tác phẩm sơn mài thành công ra đời, đánh dấu bước chuyển mình mới của sơn mài với những chủ đề rộng lớn về hiện thực mới hình thành, giải phóng khả năng tạo hình của sơn mài. Có thể kể đến một số tác phẩm tiêu biểu như: “Tát nước đồng chim” (Trần Văn Cẩn), “Nhớ một chiều Tây Bắc” (Phan Kế An), “Giữ bình yên” (Lê Quốc Lộc), “” Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ “(Nguyễn Sáng),” Ngôi nhà tranh cây mít “(Nguyễn Văn Tý),” Cây tre “(Trần Đình Thọ) …
Từ sau đổi mới (năm 1986) đến nay, sơn mài Việt Nam vẫn thể hiện sức sống mãnh liệt. Nhiều họa sĩ trẻ vẫn đam mê theo đuổi sơn mài – công việc khó, đòi hỏi cao nhưng có khả năng khơi nguồn đam mê cho họ. Tính chất “mở” trong ứng dụng kỹ thuật vẽ tranh sơn mài hấp dẫn các họa sĩ ưa khám phá. Mỗi nghệ nhân khi đến với sơn mài, với cá tính và khí chất riêng, lại có những phương pháp kỹ thuật khác nhau, tạo nên những phong cách cá nhân đậm nét. Ngày nay, bảng màu sơn mài có hàng trăm màu sơn, dễ dàng đáp ứng nhu cầu tự do thể hiện của nghệ sĩ. Màu sắc mới, ngôn ngữ mỹ thuật hiện đại được thể hiện bằng chất liệu sơn truyền thống, tạo nên nét tươi mới cho nghệ thuật sơn mài.
Sơn mài phù hợp với tâm hồn Á Đông, thể hiện mạnh mẽ đời sống nội tâm của người nghệ sĩ. Từ sự hỗn loạn của thế giới hỗn loạn cho đến vẻ đẹp tĩnh lặng của thiền định đều có thể được thể hiện bằng chất liệu đặc biệt này. Không có giới hạn về chất liệu, con đường sơn mài còn rộng và dài, là mảnh đất màu mỡ nhưng cũng đầy thử thách cho những ai quyết tâm chinh phục.
ThS VÕ THỊ HÙNG, Bảo tàng mỹ thuật Việt Nam