Lưu trữ hồ sơ và áp dụng lịch canh tác trong sản xuất nông nghiệp
Nâng cao giá trị nông sản
HTX Phú Thịnh, huyện Hưng Nguyên có diện tích 4ha với nhiều sản phẩm trồng trong nhà lưới như dưa đỏ, dâu tây, nho, ngô và các loại rau ăn lá theo mùa. Từ 2 năm nay, ông Nguyễn Văn Sơn, Giám đốc HTX Phú Thịnh Châu mới bắt đầu ghi nhật ký sản xuất.
Ghi nhật ký sản xuất ngay từ khi mua giống, chăm sóc hàng ngày cho đến khi xuất sản phẩm đã giúp anh Sơn quản lý sâu bệnh hiệu quả hơn. Bằng cách ghi nhớ loại thuốc đã dùng, từ đó có thể đổi thuốc nếu không hiệu quả, thậm chí không hiệu quả nhưng cũng luân phiên đổi thuốc để tránh tình trạng lờn thuốc, lờn thuốc.
Anh Sơn cũng có thể cập nhật lượng phân bón sử dụng hàng ngày để tính lượng tăng giảm, vì cây dưa có nhu cầu “ăn” khác nhau ở từng giai đoạn phát triển, thậm chí lượng phân bón cho dưa cũng phải thay đổi. thay đổi hàng ngày.
Việc ứng dụng công nghệ mới từ chọn giống, công nghệ vi sinh thay thế dần thuốc bảo vệ thực vật bằng phân hữu cơ đến công nghệ nhà màng, tưới tự động, nhỏ giọt đã nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm của hợp chất. hợp tác xã. Với 2-3 tấn dưa mỗi vụ, một năm, vườn dưa VietGAP của HTX Phú Thịnh cho sản lượng 6-9 tấn quả / năm.
“Được công nhận VietGAP và chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) 3 sao giúp sản phẩm của HTX dễ dàng mở rộng ra thị trường, vào được các cửa hàng thực phẩm sạch, siêu thị trong nước với giá rẻ. nhập khẩu ngày càng cao và ổn định hơn nhưng ngoài những yêu cầu khắt khe về chất lượng, hình thức còn phải có nhật ký sản xuất. Vì vậy, những năm gần đây, việc này đã trở thành thói quen ”, ông Nguyễn Văn Sơn cho biết.
HTX Nông nghiệp Diễn Phong, huyện Diễn Châu hiện có hơn 500 xã viên. Nhiều năm qua, HTX thường xuyên liên kết với các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm nông nghiệp như ớt cay, khoai tây và sắp tới là bắp cải. Giám đốc HTX Quế Văn Duyên cho biết, sau khi ký hợp đồng sản xuất, mọi thông tin đều được ghi chép, lưu trữ như lượng giống, giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật. , số lượng sản phẩm của mỗi hộ gia đình. Điều này khiến HTX điều hành sản xuất hiệu quả hơn, nắm rõ tình hình thực tế của từng hộ dân để đôn đốc bà con đầu tư, chăm sóc khi cần thiết. Đây cũng là một giấy tờ quan trọng để xuất trình cho người mua.
Ngoài hoạt động đánh bắt thủy sản, các trang trại chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản được đầu tư bài bản đều có nhật ký sản xuất, ghi chép sổ sách, còn lại trong trồng trọt còn rất ít. Phần lớn người dân sản xuất chủ yếu theo kinh nghiệm; hoặc sản xuất theo quy trình VietGAP tuy là bắt buộc nhưng hình thức khá phức tạp nên việc ghi chép thủ công còn hạn chế, chưa đầy đủ.
Tại huyện Quỳnh Lưu – vựa rau lớn nhất tỉnh Nghệ An, sản lượng rau của Quỳnh Lưu vào các siêu thị lớn như BigC, Metro … không nhiều và thường xuyên, và thực tế hầu như chỉ có khi đối tác yêu cầu. Sản xuất mới được yêu cầu ghi lại. Tuy nhiên, việc ghi chép nhật ký đã mang lại hiệu quả khá rõ rệt trong việc nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp. Sản phẩm VietGAP, có đầy đủ lý lịch sản xuất, đã vào được các siêu thị lớn, tiêu thụ ổn định, giá trị cao.
Không thể tránh khỏi
Nhật Bản là thị trường “khó tính”, đòi hỏi những tiêu chuẩn khắt khe đối với hàng hóa nhập khẩu, cũng như thị trường có giá trị cao, ổn định và uy tín. Hàng “vào” Nhật là mục tiêu của nhiều doanh nghiệp kinh doanh nông sản. Tuy nhiên, theo ông Murooka Naomichi, Phó trưởng đại diện Văn phòng JICA Việt Nam, đây là thị trường rất khắt khe về việc tuân thủ nghiêm ngặt quy trình sản xuất sạch; bao gồm cả việc lưu trữ hồ sơ.
“Nhật Bản phạt rất nặng đối với những vi phạm trong vấn đề này nên nhiều công ty đặt ra yêu cầu rất khắt khe trong việc thu mua nguyên liệu. Có nghĩa là, để sản phẩm vào thị trường Nhật Bản, nhà sản xuất phải đáp ứng các yêu cầu an toàn cơ bản như lưu trữ hồ sơ hợp lý ”, ông Murooka Naomichi cho biết.
Nhật Bản chỉ là một ví dụ về tầm quan trọng của việc lưu trữ hồ sơ trong sản xuất nông nghiệp và tiếp thị sản phẩm. Muốn “vào” được tất cả các thị trường khó tính, giá trị cao và bền vững, đây được coi là một trong những tiêu chí bắt buộc đầu tiên. Trong khi đó, nông dân Nghệ An còn thiếu thông tin trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, chủ yếu sản xuất theo kinh nghiệm và hướng dẫn của cơ quan chuyên môn chứ chưa tuân thủ nghiêm túc và chưa có thói quen ghi chép quy trình sản xuất. Điều này hầu như mới chỉ được thực hiện ở các vùng sản xuất VietGAP, GlobalGAP, tuy nhiên vẫn được ghi chép thủ công, ít nhiều còn mang tính đối phó, hình thức.
Lưu trữ hồ sơ bằng phần mềm và công nghệ kỹ thuật số, có nghĩa là những thứ như xác định chi phí cây trồng, làm rõ kế hoạch làm việc sẽ được lưu trên phần mềm ứng dụng, thông qua việc sử dụng điện thoại thông minh. , máy tính bảng. Hệ thống này ra đời giúp người nông dân tiếp cận thông tin đa dạng, kịp thời, từ đó lựa chọn phương án tổ chức sản xuất hợp lý nhất. Đồng thời đáp ứng yêu cầu của người mua về vấn đề truy xuất nguồn gốc, đảm bảo an toàn thực phẩm. Ngoài ra, người sản xuất có thể cung cấp thông tin về sản phẩm của mình bằng cách hướng dẫn cách thức canh tác và khi đó, lịch canh tác cũng trở thành một công cụ tiếp thị sản phẩm hiệu quả, đáng tin cậy.
Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ để số hóa trong sản xuất nông nghiệp là giải pháp rất cần thiết để xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm với giá cao nhất, hợp lý nhất.
“Nghệ An hiện đang rất quan tâm đến vấn đề số hóa trong sản xuất nông nghiệp. Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ phối hợp với các địa phương, tập trung tuyên truyền vận động nông dân áp dụng quy trình sản xuất, các biện pháp kỹ thuật cũng như ghi chép quá trình sản xuất trên cơ sở phần mềm dữ liệu do Bộ NN & PTNT cung cấp. Nhà nước hỗ trợ xây dựng để đáp ứng yêu cầu của các nhà cung cấp về an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc sản phẩm ”, bà Võ Thị Nhung, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Nghệ An khẳng định.