Đồng Việt Nam là gì? Lịch sử và các mệnh giá tiền xu?
Đồng Việt Nam là gì? Đồng tiền Việt Nam được dịch tên tiếng anh là gì? Lịch sử và mệnh giá tiền đồng Việt Nam?
Từ “đồng” được sử dụng trong tiếng Việt như một thuật ngữ chỉ bất kỳ loại tiền nào, sửa đổi nó cho phù hợp với tên của quốc gia trước nó. Vì vậy, ví dụ, một người sống ở Hoa Kỳ thông thạo tiếng Việt có thể gọi Đô la Mỹ là “đồng Mỹ”. Ngoài ra, “US dime” và “US cent” có thể được sử dụng để chỉ tiền xu và xu của Hoa Kỳ. Vì vậy, nếu chỉ dùng từ “đồng” để chỉ đơn vị tiền tệ của Việt Nam sẽ là chưa đủ. Đồng Việt Nam được gọi là “Đồng Việt Nam”. Vậy Đồng Việt Nam là gì? Lịch sử và các mệnh giá tiền xu? Mời bạn đọc tìm hiểu thêm về tiền Việt Nam.
1. Đồng Việt Nam là gì?
Đồng Việt Nam là tiền tệ chính thức của Việt Nam và được thể hiện bằng mã ISO là VND. Từ “đồng” có nghĩa là tiền trong tiếng Việt; nó có nghĩa là thêm từ sau tên quốc gia sẽ đề cập đến bất kỳ loại tiền tệ nào. Ví dụ, đô la Mỹ sẽ trở thành đồng Mỹ, và do đó tiền Việt Nam sẽ xuất hiện là đồng Việt Nam.
Thuật ngữ VND là đơn vị tiền tệ viết tắt của đồng Việt Nam. Đồng là tiền tệ quốc gia của Việt Nam, đã thay thế việc sử dụng tiền riêng biệt của miền Bắc và miền Nam Việt Nam vào năm 1978. Đồng được coi là một loại tiền tệ lạ vì nó không quan tâm đến thị trường ngoại hối. hoặc trong lĩnh vực tài chính toàn cầu. Cho đến năm 2016, nó đã được chốt một cách lỏng lẻo với đô la Mỹ thông qua một thỏa thuận được gọi là chốt thu thập thông tin.
Do đó, đồng tiền Việt Nam được quản lý bởi
Đồng Việt Nam được chuyển về nước theo nhiều giai đoạn, đầu tiên là ra Bắc và sau đó là vào Nam.
Đồng tiền này lần đầu tiên được chính quyền Bắc Kỳ giới thiệu về nước vào năm 1946, thay thế đồng piastra của Đông Dương thuộc Pháp. Hai cuộc đánh giá lại sau đó, một vào năm 1951 và một vào năm 1958.
Trở lại miền Nam Việt Nam năm 1953, tiền giấy piastra và tiền đồng được in ra và ngày 22 tháng 9 năm 1975, sau khi Sài Gòn thất thủ, đồng tiền của vùng này được thay thế bằng tiền đồng mới.
Sau khi Việt Nam thống nhất vào ngày 3 tháng 5 năm 1978, tiền đồng cũng được thống nhất. Đồng mới bằng 1 đồng của Bắc Việt Nam và 0,80 của Nam Việt Nam. Ngày 14 tháng 9 năm 1985, tiền đồng được định giá lại là 10 đồng cũ. Sự kiện này gây ra một chu kỳ lạm phát sẽ tiếp tục cho đến giữa những năm chín mươi.
VND đã thay thế đồng tiền trước đó bị mất giá vào năm 1978, tương đương 1/10 so với VND. Tại một số thời điểm, VND đã được chia thành đồng tiền hao hụt, nhưng vì đồng tiền này không còn được chấp nhận đấu thầu hợp pháp, nên tiền đồng được coi là đơn vị tiền tệ nhỏ nhất. VND do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành và bị lạm phát nghiêm trọng.
2. Đồng tiền Việt Nam được dịch tên tiếng anh là gì?
Đồng tiền Việt Nam được dịch với tên tiếng Anh là: “
3. Lịch sử và các mệnh giá của Đồng Việt Nam?
VND, viết tắt của tiền Việt Nam, thường được thể hiện với ký hiệu ₫.
Ngày 6/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15 / SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, với các nhiệm vụ: phát hành tiền giấy, quản lý ngân khố, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với thương mại để quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với thực dân Pháp.
Chính phủ Bắc Việt, trước đây gọi là Việt Minh, đã giới thiệu tiền đồng làm tiền tệ của mình vào năm 1946, thay thế cho đồng piastre Đông Dương của Pháp. Đồng tiền được định giá lại vào năm 1951 và 1959 với tỷ giá lần lượt là 100 đến 1 và 1000 đến 1. Tương tự, tiền tệ của miền Nam Việt Nam cũng bị chi phối bởi các tờ tiền piastre, đã được thay thế bằng tiền. đồng năm 1953. Việc chiếm Sài Gòn năm 1975 dẫn đến việc đổi tên đồng tiền của miền Nam Việt Nam thành đồng giải phóng, tương đương với 500 đồng cũ.
Trong khoảng thời gian từ năm 1954 đến năm 1975, đất nước ta bị chia cắt thành hai miền Nam Bắc, mỗi miền có một loại tiền riêng nhưng vẫn được gọi chung là tiền đồng. Sau ngày đất nước thống nhất 30/4/1975, tiền lưu hành ở miền Nam mất giá và được đổi tên thành tiền giải phóng. Cho đến năm 1978, sau khi Nhà nước ổn định và thống nhất tài chính, đồng tiền Việt Nam tiếp tục thay đổi. Ở miền Bắc, 1 đồng giải phóng đổi được 1 đồng thống nhất, ở miền Nam 1 đồng giải phóng đổi được 8 đồng thống nhất. Đồng thời, nhà nước cũng phát hành thêm các loại tiền 5 dinar, 1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 30 đồng, 50 đồng, 100 đồng.
Sự thống nhất của Việt Nam dẫn đến sự ra đời của tiền đồng vào năm 1978. Một đồng mới tương đương với 0,8 đồng miền Nam hoặc một đồng miền Bắc. Đồng Việt Nam được định giá lại vào ngày 14 tháng 9 năm 1985, đồng mới trị giá 10 đồng cũ. Nó bắt đầu một thời kỳ lạm phát kéo dài trong suốt hầu hết đầu những năm 1990.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành tiền giấy năm 1978 với các mệnh giá 5 đồng, 1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng và 50 đồng. Tiền giấy 2 đồng và 10 đồng được giới thiệu vào năm 1980, sau đó đến năm 1981 là loại tiền 30 đồng và 100 đồng. Các tờ tiền đã bị thu hồi vào năm 1985 khi do lạm phát và bất ổn kinh tế, chúng dần mất giá trị.
Năm 1985, tiền giấy mệnh giá 5 ha, 1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng và 500 đồng đã ra đời. Do lạm phát dai dẳng, các tờ tiền đầu tiên được tiếp theo là các tờ tiền mệnh giá 200, 1.000, 2.000 và 5.000 vào năm 1987, 10.000 và 50.000 vào năm 1990, 20.000 năm 1991, 100.000 năm 1994, 500.000 năm 2003 và 200.000 năm 2006. Hiện tại, tiền giấy của 5.000 đồng không còn lưu hành.
Cho đến ngày nay, đã có năm loạt tiền giấy. Ngoại trừ năm 2003, tất cả các loạt phim trước đó đều bị trộn lẫn và không có một thiết kế thống nhất.
Hiện nay có các loại tiền giấy mệnh giá 100, 200, 500, 1.000, 2.000, 5.000, 10.000, 20.000, 50.000, 100.000, 200.000 và 500.000 đồng.
Tiền tệ được thành lập vào năm 1946, khi chính phủ Việt Minh, sau này trở thành chính phủ của Bắc Việt Nam, đưa ra đồng tiền quốc gia để thay thế đồng tiền Đông Dương của Pháp. Năm 1953. Những tờ tiền này được ghi bằng đồng và piastres, phản ánh sự chuyển đổi của nó. Sau khi Sài Gòn thất thủ vào giữa những năm 1970, miền Nam Việt Nam phát hành đồng tiền giải phóng. Đồng được thống nhất vào năm 1978 sau khi Việt Nam thống nhất vào cuối những năm 1970.
Về tiền tệ, năm 1978 có đồng tiền nhôm mệnh giá 1, 2 và 5 ha, có từ năm 1976. Do lạm phát, không tồn tại được lâu.
Kể từ năm 1986 có những đồng tiền kỷ niệm bằng đồng, thiếc, cupronickel, bạc và vàng. Tuy nhiên, chúng không hề được đưa vào lưu thông.
Ngày 17 tháng 12 năm 2003, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam phát hành một loạt tiền tệ mới. Đây là các mệnh giá 200, 500, 1000, 2000 và 5000 đồng và được đúc ở Phần Lan.
Đồng Việt Nam, được quản lý chặt chẽ so với đô la Mỹ, đã bị lạm phát kinh niên. Đây là một trong những đồng tiền nghèo nhất trên toàn thế giới theo thị trường tiền tệ toàn cầu.9 Vào cuối những năm 2010, một đô la Mỹ có giá khoảng 22.000-23.000 đồng Việt Nam. Một đô la Mỹ tương đương khoảng 23.171 đồng Việt Nam tính đến tháng 11 năm 2020, theo tỷ giá hối đoái bình quân.
Năm 2017, Bloomberg đưa tin Việt Nam bắt đầu chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang trung tâm sản xuất và lắp ráp thiết bị điện tử, đặc biệt là với sự đầu tư lớn của Samsung Electronics của Hàn Quốc. Điều này có nghĩa là nền kinh tế đã tăng trưởng hơn 6% trong hai năm trước đó, trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất trên thế giới. Hơn nữa, báo cáo cho biết trong khi các đồng tiền châu Á khác như đồng baht Thái Lan (THB) và đồng ringgit Malaysia (MYR) tăng giá, và đồng peso của Philippines (PHP) giảm giá, thì tiền đồng ít thay đổi. và do đó là một trong những đồng tiền ổn định nhất. Tiền tệ Châu Á.
Ngoại trừ series cuối cùng được giới thiệu vào năm 2003, tất cả các series trước đó thường khiến người dùng bối rối và thiếu sự phối hợp trong thiết kế và chủ đề thống nhất. Ngày 7 tháng 6 năm 2007, chính phủ ra lệnh chấm dứt việc sản xuất các tờ tiền cotton 50.000 đồng và 100.000 đồng. Kể từ ngày 1 tháng 9 năm 2007, tờ tiền không còn được lưu hành.
Năm 2003, Việt Nam bắt đầu thay thế tiền giấy cotton bằng tiền polymer nhựa với lập luận rằng nó sẽ giảm chi phí in ấn. Một số tờ báo trong nước phản đối việc cải cách, viện dẫn các khiếm khuyết về in ấn và cho rằng các hợp đồng in ấn có lợi cho con trai Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Với loạt tiền giấy năm 2003 thay thế tiền giấy cũ cùng mệnh giá, các loại tiền 200 đồng, 500 đồng, 1000 đồng, 2000 đồng và 5.000 đồng làm bằng polyme cotton hiện đang được phân phối rộng rãi và được công nhận. .
Hiện các loại tiền giấy mệnh giá 100 đồng, 200 đồng, 500 đồng, 1.000 đồng, 2.000 đồng, 5.000 đồng, 10.000 đồng, 20.000 đồng, 50.000 đồng, 100.000 đồng, 200.000 đồng và 500.000 đồng đang được lưu hành tại Việt Nam. Nam giới.
Ngoài việc lưu thông tiền giấy, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hỗ trợ ổn định tiền tệ, điều tiết mọi hoạt động ngân hàng doanh nghiệp và xây dựng chính sách tài khóa tại Việt Nam. Nó cũng phát hành trái phiếu chính phủ và kiểm soát dự trữ tài chính của đất nước.