Bảo vệ bản quyền là để nuôi dưỡng các nghệ sĩ
Đi tiên phong trong việc mở đường là điều đáng khen ngợi, quan trọng hơn, hơn 20 năm qua, VCPMC đã thu về 1.063 tỷ đồng tiền bản quyền. Riêng năm 2022, trung tâm phấn đấu đạt hơn 230 tỷ đồng, đạt mục tiêu đề ra là 10 triệu USD / năm. Thành công đến từ cách làm bài bản, minh bạch của VCPMC, không chỉ đơn thuần giúp nhạc sĩ “sống khỏe” bằng nghề; Quan trọng hơn, nó đã làm cho việc trả tiền bản quyền đi vào nề nếp, trở nên rõ ràng.
Mô hình và hoạt động của VCPMC không phải là mới. Ở các nước phát triển, việc bảo vệ bản quyền hiệu quả nhất do các hiệp hội nghề nghiệp thực hiện. Các nhà sáng tạo tự nguyện tập hợp trong một tổ chức và tất nhiên, hiệp hội nghề nghiệp sẽ bảo vệ quyền lợi “gần gũi” hơn của các thành viên. Trong vấn đề bảo vệ quyền tác giả, hiệp hội sẽ giám sát việc sử dụng tác phẩm, nhận ủy quyền phí sử dụng để trả lại cho tác giả, sẵn sàng thông báo với cơ quan chức năng về hành vi vi phạm, thậm chí thỏa thuận với nghệ sĩ ra tòa để đòi công lý.
Kinh nghiệm bảo vệ quyền tác giả đã có, nhưng tại sao tình trạng vi phạm bản quyền vẫn tràn lan, gây thiệt hại đến quyền lợi chính đáng của nghệ sĩ? Hiện nay, hầu hết các hội nghệ nhân ở nước ta chưa quan tâm nhiều đến vấn đề bảo hộ quyền tác giả do không có nhân lực đủ năng lực và tâm huyết để làm công việc phức tạp này. Cơ chế phối hợp giữa các hiệp hội nghề nghiệp và các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa tốt. Hạn chế lớn nhất khiến nhiều người sử dụng tác phẩm ngày càng “trung thành với pháp luật”, bởi có rất ít “án” vi phạm bản quyền bị truy tố, chủ yếu là cho tồn tại. Tình trạng vi phạm bản quyền ngày càng nghiêm trọng trên môi trường không gian mạng, các đối tượng vi phạm bản quyền có thể giấu mặt, chỉ có lực lượng chuyên trách sử dụng công nghệ cao mới có thể phát hiện và theo dõi được. Như vậy, việc bảo vệ quyền tác giả vốn đã gian nan nay lại càng khó hơn, đòi hỏi sự đề cao trách nhiệm của toàn xã hội.
Ngăn chặn vấn nạn vi phạm bản quyền mới thúc đẩy sự phát triển của văn học, nghệ thuật, thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn bấy lâu nay vẫn vướng vào. Ví dụ, nếu loại bỏ được vấn nạn in sách lậu thì lượng phát hành tác phẩm của các nhà văn Việt Nam sẽ tăng lên, có thể lên đến 1-2 nghìn bản cho một cuốn sách chất lượng tốt, thay vì chỉ 2.000-3.000 bản. Đời sống vật chất của nhà văn sẽ tốt hơn để tiếp tục tập trung viết những tác phẩm có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật. Tuy nhiên, hơn 1.000 hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, có mấy ai sống được bằng nghề như nhà văn Nguyễn Nhật Ánh? Ngoài chủ đề nổi tiếng được người lớn và trẻ em yêu thích, bất kỳ tác phẩm mới nào của anh đều có sẵn theo đơn đặt hàng, lần đầu tiên lên tới 100.000 bản. Ngay cả khi phát hành lần đầu và sau đó bị vi phạm bản quyền rộng rãi, Nguyễn Nhật Ánh vẫn có thể kiếm tiền tỷ từ bản quyền. Các tác giả khác viết những đề tài khó đọc, vậy mà bị vi phạm bản quyền thì biết sẽ thất vọng thế nào, viết cho vui chứ không chịu đầu tư sáng tạo.
Trong thời đại công nghiệp văn hóa, tác phẩm văn học – nghệ thuật đồng thời là sản phẩm hàng hóa tuân theo quy luật thị trường về giá trị, cung cầu và cạnh tranh. Ai có tài cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị sẽ được công chúng “nuôi” bằng cách tiêu thụ sản phẩm của họ. Từ đó hình thành nên những con người chuyên nghiệp có thể sống bằng nghề, là cơ sở đảm bảo cho những tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao và làm phong phú thêm nền văn hóa nước nhà.
HẠNH PHÚC đan