Nguồn gốc và sự phát triển của thơ lục bát Việt Nam
Là một thể loại mang đậm chất “quốc hồn quốc túy”, là thể loại sáng tác được yêu thích và ưa chuộng nhất ở nước ta, thơ lục bát luôn thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều thế hệ độc giả yêu thơ. và các nhà nghiên cứu và phê bình.
Về nguồn gốc, hiện có hai hướng nghiên cứu chính, giải quyết hai vấn đề khác nhau. Hướng thứ nhất tiến hành “nghiên cứu” vào thời điểm xuất hiện hình lục giác. Theo hướng này, dựa trên các thể loại văn học dân gian, các nhà nghiên cứu đưa ra các đề xuất khác nhau. Nguyễn Đổng Chi cho rằng lục bát có thể đã xuất hiện trong khoảng “năm 40 – 43 sau Công nguyên”. Nguyễn Văn Hoan nhận xét “thể lục bát, sớm nhất, chỉ xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XV”. Hoa Bằng cho rằng thời điểm lục bát xuất hiện là vào khoảng thế kỷ XI. Phạm Thế Ngũ cho rằng lục bát xuất hiện vào thời Trần … Người đưa ra lý giải khả dĩ nhất cho hướng nghiên cứu này là một nhà nghiên cứu. Phan Diễm Phương. Phan Diễm Phương cho rằng, nếu chỉ dựa vào sử liệu văn học dân gian thì không thể kết luận chính xác về thời điểm xuất hiện của lục bát. Tiếp theo, Phan Diễm Phương đề xuất một cách tiếp cận mới: Dựa trên các tài liệu thành văn. Bà cho biết, trong tác phẩm “Tám ngày tháng năm giải thưởng hát ả đào” của tác giả Lê Đức Mão, sáng tác trước năm 1504, có “sáu dòng tám xen kẽ với một số dòng bảy chữ, năm dòng. – dòng ngôn ngữ, và năm dòng thứ sáu, “cô nói. bát. Đến nay, những dòng lục bát trong tác phẩm của Lê Đức Mão đã có đủ cơ sở để được coi là những dòng lục bát cổ nhất còn sót lại. Chúng cũng trở thành những điểm mốc đầu tiên để tìm hiểu về thể thơ. Hiện tại, đây vẫn là bằng chứng tốt nhất mà chúng ta có được về thời điểm xuất hiện hình thể lục lăng.
Hướng thứ hai là tìm hiểu về sự thuần Việt của thể lục bát. Theo quan niệm của đa số người Việt, lục bát là thể thơ thuần Việt, do người Kinh sáng tạo ra. Tuy nhiên, mọi thứ không đơn giản như nhiều người vẫn nghĩ. Nhà nghiên cứu Phùng Quỳnh trong bài “Vài nhận xét ban đầu về hình thức thơ Mường” đã nêu ra trường hợp mà ông cho là lục bát Mường. Đó là câu: “Chim quen lui một bước / Hy sinh chim quen lưỡi trong” (Chim quen cành đào / Lả lơi chim lạ tranh mồi). Trong cuốn “Tục ngữ ca dao Mường Thanh Hóa”, nhà nghiên cứu Minh Hiếu đã có những ghi nhận, đánh giá kỹ lưỡng về thể thơ được coi là lục bát của Mường: “Bên cạnh những thể thơ lục bát, ca dao Mường còn vận dụng cả thể thơ lục bát, song thất lục bát. Cũng trong cuốn sách này, ông trích dẫn rất nhiều bài dân ca Mường viết theo thể lục bát với mục đích: “Góp phần tư liệu cho việc nghiên cứu văn học Mường (cũng có thể là nghiên cứu về thể song thất lục bát) gốc) than do yêu cầu thưởng thức văn học ”. Ở một không gian khác, trong “Khái niệm văn học Chăm”, nhà thơ Inrasara khẳng định rằng người Chăm cũng có thể tự lục bát của mình. Ông viết: “Chúng tôi tạm dùng cụm từ“ lục bát Chăm ”để chỉ thơ ariya Chăm”. Inrasara đã phân tích kỹ lưỡng sự giống nhau giữa thể thơ lục bát của Việt Nam và thơ ariya của người Chăm ở cách gieo vần, luật bằng phép đối. Với sự gần gũi, giao thoa về lịch sử, văn hóa và đặc biệt là ngôn ngữ giữa hai dân tộc Kinh-Mường, việc người Mường có thể có bát của mình là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Riêng về trường hợp lục bát của người Chăm, vẫn còn một vài điểm khiến chúng ta băn khoăn về kết luận của nhà thơ Inrasara, chẳng hạn như vấn đề âm tiết. Trong khi thể lục bát có quy định chặt chẽ về số lượng âm tiết, thì ariya Chăm phát triển âm tiết theo kiểu “nở hoa”, tự do theo cách tùy thích bao nhiêu cũng có. Mặt khác, lục bát trong tiếng Việt hoàn toàn đồng bộ về vần và thanh điệu bằng nhau và cũng có những quy tắc chặt chẽ. Trong khi đó, hình thức ariya của người Chăm vẫn đồng bộ cả về vần và nhịp, âm điệu vẫn ở trạng thái “phát triển tương đối thoải mái” như đánh giá của riêng Inrasara. Trước những vấn đề nêu trên, khó có thể thuyết phục rằng thể thơ ariya của người Chăm là thể thơ tương tự như lục bát của Việt Nam.
Quá trình phát triển để hoàn thiện mô hình chuẩn của lục bát, cũng theo nhà nghiên cứu Phan Diễm Phương, được chia thành ba giai đoạn chính. Giai đoạn đầu, cuối thế kỷ 16 – đầu thế kỷ 17, lục bát “còn ở trạng thái có phần lỏng lẻo, phóng khoáng, được thể hiện tập trung qua hai yếu tố vần và thanh”. Giai đoạn thứ hai từ đầu thế kỷ 18 với các tác phẩm như “Song tinh”, “Hoa tiên nữ”, “Hồ sơ tân trang”,… ”đã phải đấu tranh để đi đến một kết luận dứt khoát. một mẫu hình lục giác mẫu mực. Có thể ghi nhận sự đấu tranh đó từ hai dấu hiệu cũng liên quan đến vần và nhịp. Trong giai đoạn thứ ba sau “Truyện Kiều”, Lục Bát đã hoàn thiện mô hình tiêu chuẩn của thể loại, xây dựng một hệ thống quy tắc hoàn chỉnh như chúng ta sẽ thấy ở phần sau. Một hình lục giác được coi là hoàn chỉnh khi nó bao gồm ít nhất một cặp hình lục giác gồm 14 giờ. Vần kết hợp với vần bằng ở âm thứ sáu của câu thơ và vần thứ sáu của câu thơ, âm thứ tám của câu thơ và vần thứ sáu của câu thơ tiếp theo, cứ thế luân phiên cho đến hết bài. Âm sắc của các tiếng (2), (4), (6) của câu lục tuân theo mô thức bằng-tương-đương. Trong câu lục bát, các âm (2), (4), (6), (8) tuân theo mẫu dấu bằng. Về nhịp điệu, lục bát ưa thích nhịp chẵn với cách ngắt nhịp 3/3 hoặc 2/2/2 thông thường ở câu lục và 2/2/2/2 ở câu bát. Về cấu trúc, lục bát thường được viết theo một số cấu trúc tiêu biểu như kể chuyện, hát ru, đối đáp, nối tiếp …
Bên cạnh sự ổn định, sáu quãng tám còn có những biến thể về nhiều mặt. Về thanh điệu, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng có 3 biến thể trong câu thơ và 5 biến thể trong câu thơ. Nhiều hình lục giác có nhịp độ kỳ lạ. Văn vần Lục bát cũng ghi nhận những biến thể vần độc đáo của câu thơ, chẳng hạn như vần ở âm thứ 5 trong bài “Ngày xửa ngày xưa” của Đỗ Trọng Khôi: “Xưa làng quê cũng nghèo / Hoa nở cuối bãi chăn vịt, ao hồ ”; vần ở âm thứ 7 trong bài “Gặp nhau” của Nguyễn Bính: “Ta chẳng còn gì / Sống trong oán hận thành sầu”. Mặt khác, bằng tài năng của mình, nhiều nhà thơ đã sáng tạo ra những câu thơ biến tấu độc đáo, như câu thơ khuyết “Tình biên giới” của Khánh Phan Hữu (cả đoạn thơ gồm 5 tiếng, đoạn thơ gồm 7 tiếng). âm thanh), “Tiếng máy” (cả câu gồm 9 tiếng), “Mười bàn tay” (cả câu gồm 10 tiếng) của Cẩm Giàng …
Với Nguyễn Du ở thế kỷ 18, Tản Đà, Trần Tuấn Khải, Nguyễn Bính, Huy Cận, Tố Hữu … ở thế kỷ 20 và Nguyễn Thế Hoàng Linh, Hoàng Anh Tuấn, Miên Di … trong những năm đầu của thế kỷ. Thế kỷ 21, Việt Nam luôn có những tác giả, tác phẩm mang lại vẻ vang cho thể loại, khẳng định sức sống bất diệt trong dòng chảy văn học nước nhà. Sự “vĩnh cửu” và phát triển của sáu quãng tám không chỉ thể hiện khả năng biến đổi và thích ứng mạnh mẽ trong các thời kỳ khác nhau của một thể loại thơ cụ thể, mà còn thể hiện hướng đi đúng đắn “đến với hiện tại”. đại từ truyền thống ”của văn học Việt Nam hiện nay và đương đại.
TS Đoàn Minh Tâm