Tái thất nghiệp sau khi xuất khẩu lao động
Sau 7 năm làm việc tại nhà máy dệt ở Hàn Quốc, anh Trần Đạt trở về quê hương Hà Tĩnh với xuất phát điểm là kiếm sống bằng nghề phụ hồ, bốc vác.
Năm 2009, anh Đạt bỏ nghề đi biển, vay vốn sang Hàn Quốc làm công nhân nhà máy dệt, lương tháng 800-1.000 USD (14-16 triệu đồng Việt Nam, tính theo giá USD tại thời điểm đó). thời gian). Theo thời gian, lương tăng dần, nhưng không quá 20 triệu đồng. Hàng tháng, anh trích khoảng 5-7 triệu đồng sinh hoạt, số còn lại gửi về quê ở xã Cương Gián, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh để vợ trả nợ và nuôi hai con ăn học.
Sau hai lần gia hạn hợp đồng, anh Đạt về quê vào năm 2016. Trừ chi phí gia đình và sinh hoạt hàng ngày của vợ con, số vốn anh tích lũy được trong quá trình xuất ngoại còn khoảng 500 triệu đồng. . Ban đầu, anh định tiếp tục theo nghề đi biển vì hải sản đánh bắt được dồi dào, giá cả ổn định. Tuy nhiên, sau nhiều năm làm việc chăm chỉ trong xưởng dệt, cơ thể anh đã quen với guồng quay mới. Trở lại biển, anh say sóng, đi khoảng một hải lý là chóng mặt.
Giờ đây, ông Đạt đã 49 tuổi, mưu sinh bằng nghề phụ hồ, bốc vác nhưng do sức khỏe yếu, công việc không ổn định nên một tuần ông chỉ làm được 2-3 công việc. Tiền không ra, vợ không có việc làm, gia đình thường trích mỗi lần vài triệu từ số tiền 500 triệu đồng tích cóp được để trang trải. “Sau 4 năm, gia đình tôi tiêu hết số tiền tích góp được. Từ năm 2020, Covid-19 xuất hiện khiến cuộc sống gia đình đảo lộn, công ăn việc làm hiếm, thiếu có lúc phải đi vay”, anh Đạt nói.
Anh Đạt tâm sự rất buồn vì mong muốn được xuất ngoại để đổi đời nhưng giờ vẫn án binh bất động. Căn nhà cấp 4 do bố mẹ để lại trước khi cưới vẫn chưa xây được. Nhiều người từ nước ngoài trở về đã áp dụng công việc đã từng làm để phát triển, nhưng anh không nỡ vì ở quê không có xưởng dệt nên phải lặn lội xa xôi vào Nam làm việc.
Theo ông Đinh Văn Nam, Trưởng phòng Lao động, Thương binh và Xã hội huyện Nghi Xuân – địa phương hướng tới xuất khẩu nhiều nhất tỉnh Hà Tĩnh, với hơn 14.500 người, mỗi năm huyện đưa 1.000 người ra nước ngoài làm việc. làm việc và chào đón. Khoảng 300 trường hợp chấm dứt hợp đồng đã về nước.
Lao động trở lại đa dạng và phân hóa theo hai hướng. Khoảng 70% chuyển đổi nghề nghiệp theo hướng nhàn hạ, thu nhập cao hơn như mở hợp tác xã sản xuất, đầu tư kinh doanh … 30% số tiền kiếm được đủ trả nợ, xây nhà rồi về. những nghề cũ như đi biển, làm những công việc chân tay nặng nhọc. Anh Đạt nằm trong số những trường hợp này.
“Hằng năm, huyện luôn phối hợp với Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh và các doanh nghiệp thông báo đến các xã, nhắc nhở những người mới đến, nghe tư vấn tìm việc làm. Tuy nhiên, theo nhận thức chung của cán bộ, đa số người dân chưa có nhu cầu tư vấn. và ít quan tâm, họ tự tìm hiểu thông qua bạn bè, người thân rồi tự làm, rất ít trường hợp theo chỉ đạo của chính quyền “, ông Nam nói.
Trên thực tế, không phải tất cả lao động xa xứ về nước đều gặp khó khăn khi tìm việc làm. Vẫn có những người biết tích lũy kinh nghiệm, tiền bạc để tạo việc làm và làm giàu. như anh Hoàng Minh Thắng, 47 tuổi, quê Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Năm 1994, gia đình bán 6 con bò để anh Thắng sang Hàn Quốc theo đuổi nghề đánh bắt xa bờ. Hết hợp đồng hai năm, anh về nước, sau đó tiếp tục sang Hàn Quốc thêm hai chuyến nữa, trong đó có 3 năm đánh bắt xa bờ, 5 năm phục vụ nghề biển xa bờ.
Năm 2004, anh Thắng về nước, mang theo vốn liếng, kỷ luật lao động của nước ngoài và ý chí vươn lên thoát nghèo. “Số vốn mang về tuy nhỏ nhưng rất quý. Vì số vốn này, tôi mạnh dạn vay thêm để mở trang trại, nhưng vay hết cũng không trả được lãi”, anh Thắng nhớ lại.
Hiện anh đang sở hữu trang trại rộng 6 ha, trong đó 3,5 ha nuôi tôm, còn lại là trại heo khép kín, có dàn lạnh nuôi 50 con heo nái và 300 con heo thịt. Trang trại giải quyết việc làm cho gần 10 lao động địa phương, đem lại lợi nhuận khoảng 1,5 tỷ đồng. Đầu tháng 8, anh Thắng là một trong hai nông dân của tỉnh được tuyên dương “Nông dân Việt Nam xuất sắc 2022”.
Tại một hội thảo về xuất khẩu lao động diễn ra giữa tháng 8, bên cạnh một số mặt tích cực, nhiều chuyên gia cũng chỉ ra thực trạng có tới 90% người đi làm việc ở nước ngoài chủ yếu vẫn là nhóm tay nghề thấp. chuyên môn và ngoại ngữ. Tỷ lệ công nhân kỹ thuật bậc cao và chuyên gia không quá 10%. Đây là nguyên nhân chính khiến họ khó phát triển khi về nước và dễ rơi vào vòng luẩn quẩn khó tìm được việc làm, thậm chí là thất nghiệp.
Nhận định này cũng phù hợp với cuộc khảo sát do Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) thực hiện với các thực tập sinh đang làm việc tại Nhật Bản. Đến tháng 6/2021, khoảng 200.000 thực tập sinh kỹ năng Việt Nam đang học tập tại Nhật Bản, chiếm 63,8% số thực tập sinh quốc tế được đào tạo nghề tại nước này. Đây được coi là nguồn cung cấp lao động cho các công ty FDI Nhật Bản, liên doanh Việt Nhật, văn phòng đại diện Nhật Bản tại Việt Nam.
Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực, tỷ lệ thực tập sinh Việt Nam về nước tìm được việc làm thấp nhất, chỉ đạt 26,7%, trong khi Trung Quốc, Thái Lan, Philippines là hơn 50%. Tỷ lệ thực tập sinh kỹ năng Việt Nam trở lại làm việc tương tự như ở Nhật Bản thấp. “Đây là sự lãng phí kinh nghiệm của nguồn nhân lực, không đáp ứng được mục đích ban đầu của chương trình thực tập sinh kỹ năng là chuyển giao kỹ năng”, JICA đánh giá.
Về nguyên nhân không tìm được việc làm, khảo sát 341 doanh nghiệp Nhật Bản và hơn 40 nhà tuyển dụng cho thấy, thực tập sinh chủ yếu làm việc trong lĩnh vực xây dựng, nông nghiệp, dịch vụ và công nghệ thông tin, ngoài khả năng tìm việc. Kỹ năng tiếng Nhật, kinh nghiệm làm việc trong quá khứ của họ không có giá trị. Nhiều doanh nghiệp cho biết, phạm vi công việc của sinh viên thực tập còn hạn chế. Họ chỉ được trải nghiệm một loại máy và có thể máy sẽ không được sử dụng tại Việt Nam.
Ngoài ra, 47% công ty coi thu nhập là rào cản lớn khi tuyển sinh viên du học Nhật Bản trở về. Thu nhập bình quân hàng tháng của họ tại Nhật Bản là 1.000-1.500 USD, cao gấp 3-4 lần mức trung bình của lao động mới làm việc trong nước.
Để giải quyết vấn đề việc làm sau xuất khẩu, ông Nguyễn Xuân Lanh, Phó tổng giám đốc Công ty TNHH Esuhai, TP.HCM – doanh nghiệp có hơn 10 năm kinh nghiệm đưa lao động sang Nhật Bản cho biết, người lao động phải thay đổi suy nghĩ của bạn khi bạn đi. Chỉ trong độ tuổi 20-30, nhưng hầu hết đều có tư tưởng “hết cửa”, xuất khẩu để giải quyết nhu cầu ngắn hạn về thu nhập và việc làm. Hệ quả của suy nghĩ đó là không có định hướng lâu dài cho cuộc sống, không có nhu cầu tiếp thu cái mới, không tự chuẩn bị cơ hội cho tương lai sau khi về nước.
Các chuyên gia nhấn mạnh, 3-5 năm ở nước ngoài là khoảng thời gian quan trọng đối với cuộc đời của một lao động xuất khẩu. Ngay cả khi đó là một công việc đơn giản, bạn vẫn cần phải học ngoại ngữ. Nếu chỉ nhận hướng dẫn từ người quản lý, không liên lạc được khi cần thì rất dễ dẫn đến xung đột. Giao tiếp xã hội của họ cũng hạn chế, chủ yếu là theo nhóm đồng hương Việt Nam nên không học hỏi được gì, ý chí vươn lên mất dần. Nếu người lao động không học thì doanh nghiệp cử đi đào tạo cũng khó.