Thúc đẩy Đồng bằng sông Cửu Long nhanh chóng thoát khỏi “ba dòng xoáy”
Đó là ý kiến của TS Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright, trưởng nhóm nghiên cứu Báo cáo thường niên kinh tế ĐBSCL 2022 với chủ đề “Chuyển đổi mô hình phát triển và quy hoạch tích hợp” vừa được công bố. . công bố gần đây.
NÔNG NGHIỆP CHƯA ĐỦ ĐỦ
Bức tranh kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long với nhiều thách thức đã được phác họa cụ thể và rõ ràng trong báo cáo lần thứ 2. Báo cáo phân tích đã tăng trưởng chậm lại từ trước năm 2019, nền kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long lại hứng chịu một cú sốc nặng nề nữa từ đại dịch Covid-19.
Kết quả là tốc độ tăng trưởng giảm mạnh từ 7,14% năm 2019 xuống chỉ còn 2,42% năm 2020 – thấp hơn đáng kể so với mức trung bình của cả nước là 2,9%.
Đến năm 2021 lại giảm xuống -0,43%, trong khi cả nước vẫn duy trì mức tăng trưởng + 2,26%. Như vậy, xét về tốc độ tăng trưởng kinh tế, Đồng bằng sông Cửu Long chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19 hơn cả nước.
Năm 2021, cả nước có 9 địa phương tăng trưởng âm, riêng Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 6.
Theo báo cáo, nguyên nhân chính của sự suy giảm kinh tế khu vực Đồng bằng sông Cửu Long là do sự chênh lệch xã hội kéo dài trong quý III / 2021 ở khu vực phía Nam, đặc biệt là do sự thiếu linh hoạt và đồng thuận. Bộ Y tế về các biện pháp phòng, chống dịch và sự xa rời xã hội giữa các địa phương đã gây ra sự gián đoạn trong chuỗi cung ứng, cản trở khả năng tiếp cận của hàng hóa vào TP.HCM. Hồ Chí Minh, làm tăng chi phí vận chuyển và hậu cần.
Điều này cho thấy công nghiệp và dịch vụ của ĐBSCL có khả năng chống chịu và chống chọi với khủng hoảng tương đối thấp.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, điểm sáng lớn nhất của ĐBSCL trong hai năm 2020-2021 là nông nghiệp. Mặc dù năm 2021 có dịch bệnh nhưng ngành nông nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long vẫn tăng trưởng mạnh (3,4%), cao hơn nhiều so với bình quân chung của cả nước.
Xuất khẩu nông sản và thủy sản của khu vực đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì thặng dư thương mại của Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ riêng nông nghiệp là không đủ để vực dậy nền kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long khi khu vực công nghiệp và dịch vụ cùng chiếm hơn 70% GRDP của vùng – đều tăng trưởng âm, ước đạt 0,8% và -1,8%.
Công nghiệp và dịch vụ của khu vực này chưa đủ mạnh để trở thành trụ cột kinh tế bền vững cho khu vực. Hơn nữa, chất lượng cơ sở hạ tầng, nguồn lao động và sự phát triển của các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp là những hạn chế cơ bản khiến ĐBSCL thiếu sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Trong giai đoạn 2017 – 2021, Đồng bằng sông Cửu Long có tốc độ tăng trưởng doanh nghiệp bình quân thấp nhất cả nước, chỉ 4,1% / năm. Theo báo cáo, nếu duy trì tốc độ phát triển như hiện nay, trong khoảng 20 năm nữa, Đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị Tây Nguyên, Trung du và miền núi phía Bắc vượt lên trở thành vùng có số lượng doanh nghiệp thấp nhất. quốc gia.
Điểm đáng lưu ý là thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Đồng bằng sông Cửu Long tuy đã có một số cải thiện nhưng vẫn chưa thật hấp dẫn. Lũy kế đến năm 2021, ĐBSCL chỉ chiếm 5% số dự án và 8% vốn đăng ký FDI so với cả nước.
Cần nhấn mạnh rằng, sự khởi sắc của thu hút FDI trong thời gian qua không phải do khắc phục được những vấn đề cố hữu liên quan đến cơ sở hạ tầng hay nguồn nhân lực… mà chủ yếu nhờ vào khai thác. Một lĩnh vực tiềm năng mới là năng lượng.
Lĩnh vực nông nghiệp vốn là thế mạnh của Đồng bằng sông Cửu Long mới chỉ thu hút được 1,7% số dự án và chưa đến 0,3% vốn FDI đăng ký của toàn vùng.
Đối mặt với BA “CON GÁI” XUỐNG
Báo cáo cũng cho thấy Đồng bằng sông Cửu Long đang phải đối mặt với sự thử thách của ba vòng xoáy: vòng xoáy ngân sách, vòng xoáy lao động và vòng xoáy cơ cấu kinh tế.
“Vòng xoáy ngân sách” phản ánh tình trạng thiếu đầu tư nghiêm trọng ở Đồng bằng sông Cửu Long. Do chưa có sự đầu tư của Nhà nước, cơ sở hạ tầng, nhất là giao thông trong vùng vừa thiếu, vừa yếu, vừa xuống cấp nên không thu hút được nhiều dự án đầu tư có hiệu quả. Đây cũng là điểm bắt đầu của chu kỳ lao động thứ hai.
“Vòng xoáy lao động” xuất phát từ việc thiếu cơ hội việc làm nên lao động trẻ di cư từ Đồng bằng sông Cửu Long về các đô thị và khu công nghiệp ở Đông Nam Bộ giảm cả về số lượng và chất lượng. lực lượng lao động của khu vực. Điều này làm trầm trọng thêm vòng xoáy đi xuống trong đầu tư do lợi thế về lao động dồi dào không còn là lợi thế của chi phí thấp đi đôi với chất lượng thấp.
Theo báo cáo, “vòng xoáy cơ cấu kinh tế” là nguyên nhân của hai vòng xoáy này. Với sứ mệnh “an ninh lương thực”, ĐBSCL phải ưu tiên thâm canh, tăng vụ.
Mặc dù chính sách này đã giúp Việt Nam xóa đói và trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu, nhưng nó vẫn chưa giúp Đồng bằng sông Cửu Long trở nên thịnh vượng. Không chỉ vậy, chính sách này còn kìm hãm ĐBSCL trong hoạt động nông nghiệp năng suất thấp, giá trị gia tăng thấp, chuyển đổi cơ cấu chậm.
“Điều này làm cho Đồng bằng sông Cửu Long thiếu nguồn lực, cơ sở hạ tầng yếu kém, nhà đầu tư kém hấp dẫn, người lao động tiếp tục di cư vì mức sống thấp và thiếu cơ hội việc làm… Các vòng xoáy đi xuống cứ quấn lấy nhau và tiếp tục trôi”. báo cáo đã phân tích.
Đầu tư công cho cơ sở hạ tầng vùng Đồng bằng sông Cửu Long chưa theo kịp nhu cầu, do đó, việc đầu tư công bổ sung là cần thiết và phải đi kèm với hiệu quả trong quy hoạch, tránh trùng lặp, chậm trễ,… kìm hãm sự phát triển kết cấu hạ tầng của vùng. Ngoài ra, các ràng buộc về quy định cũng đã làm tăng chi phí logistics do tạo ra các rào cản trong phân phối, lưu kho và vận chuyển. Do đó, các tỉnh trong khu vực cần hợp tác với nhau hiệu quả hơn để khuyến khích tạo ra quy mô kinh tế trong lĩnh vực logistics.
Khu vực này cần phát triển các cơ chế tài chính xanh và tài chính khí hậu, để tăng tốc và thu hút tài chính xanh cho nông nghiệp và các dự án liên quan. Tài chính nước ngoài rất quan trọng, nhất là khi đi kèm với công nghệ tiên tiến và thiết bị chủ chốt mà ở Việt Nam chưa sản xuất được.
Tuy nhiên, phần lớn tài chính cho thích ứng với biến đổi khí hậu sẽ đến từ các nguồn trong nước. Chính phủ có thể đóng một vai trò tích cực hơn trong việc thúc đẩy sự phát triển sâu rộng của thị trường vốn trong nước, đặc biệt là thị trường thứ cấp trái phiếu trong nước và các công cụ tài chính khác.
Khuyến khích các mô hình chuyển đổi nông nghiệp kiểu mới. Nông nghiệp ngày càng thâm dụng vốn và công nghệ. Đồng bằng sông Cửu Long sẽ tiếp tục là nơi sản xuất lúa gạo lớn, nhưng sẽ chuyển dần sang các mặt hàng có giá trị gia tăng cao hơn, bao gồm cá, sò, sản phẩm tươi sống, … Chính phủ sẽ đóng vai trò. Nó đóng một vai trò quan trọng trong việc kích thích đổi mới, khuyến khích các thực hành bền vững, điều chỉnh việc sử dụng thuốc trừ sâu và lạm dụng phân bón hóa học, xây dựng cơ sở hạ tầng công cộng và giảm chi phí hậu cần.
Cuối cùng, các tỉnh cần hợp tác với nhau. Các thách thức về xã hội, kinh tế, môi trường và biến đổi khí hậu không thể chỉ một tỉnh giải quyết được. Các tỉnh cần hợp tác và cùng hành động để đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô trong đầu tư công, hậu cần, bảo tồn nguồn nước, kiểm soát lũ lụt và phát triển hệ thống sản xuất nông nghiệp.
Khu vực tư nhân có vai trò quan trọng trong việc huy động các nguồn lực để thực hiện Quy hoạch tổng thể vùng. Người ta ước tính rằng từ nay đến năm 2030, sẽ cần ít nhất 57 tỷ USD để tài trợ cho các khoản đầu tư cần thiết vào khu vực được xác định trong quy hoạch tổng thể. Với nhu cầu tài chính rất lớn này, nguồn vốn công chỉ đáp ứng được 21%, 79% sẽ phải đến từ các nguồn khác và tài chính tư nhân phải là người đóng góp chính.
VCCI cần phát huy vai trò là cầu nối quan trọng giữa các nhà hoạch định chính sách và cộng đồng doanh nghiệp, phối hợp với các cơ quan nghiên cứu và tổ chức tư vấn quan trọng, WB sẵn sàng tham gia hỗ trợ kỹ thuật. tư vấn kỹ thuật, tài chính.