Lãnh đạo doanh nghiệp “cô đơn” khi lao động trẻ thiếu kỹ năng mềm

Rate this post

Tại buổi đối thoại “Sự tham gia của doanh nghiệp trong phát triển kỹ năng việc làm cho lao động trẻ” ngày 27/9, bà Trần Thị Lan Anh, Tổng Thư ký, Tổng Liên đoàn Công Thương Việt Nam (VCCI), cho biết báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới năm Năm 2019 cho thấy chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam đã được cải thiện từ vị trí thứ 77 lên mức tốt nhất thế giới. đứng thứ 67 trong số 141 nền kinh tế trên thế giới.

LAO ĐỘNG VIỆT NAM CÓ RẤT NHIỀU KỸ NĂNG MỀM

Đáng chú ý, trong 12 trụ cột và 103 tiêu chí của chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu, trụ cột kỹ năng tăng 4 bậc, đặc biệt tiêu chí chất lượng dạy nghề tăng 13 bậc. Năng suất lao động của Việt Nam đã được cải thiện trong nhiều năm qua trong khu vực ASEAN, đạt bình quân 4,77% / năm, chứng tỏ trình độ tay nghề của người lao động từng bước được cải thiện và nâng lên.

Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên từ 15-24 tuổi là 8,48%, tăng 0,52 điểm phần trăm so với năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên khu vực thành thị là 11,91%, tăng 1,33 điểm phần trăm so với năm trước.

Bà Trần Thị Lan Anh, Tổng Thư ký VCCI phát biểu tại buổi đối thoại.
Bà Trần Thị Lan Anh, Tổng Thư ký VCCI phát biểu tại buổi đối thoại.

“Nhìn chung, thị trường lao động còn nhiều khó khăn, nhất là lao động trẻ cần được đặc biệt quan tâm đào tạo, phát triển kỹ năng”, bà Lan Anh nói.

Trình bày bức tranh về lực lượng lao động của Việt Nam, PGS.TS. GS.TS Nguyễn Thị Thuận, nguyên Quyền Hiệu trưởng Trường Đại học Lao động – Thương binh và Xã hội cho biết, người trong độ tuổi lao động hiện có 50,7 triệu người, chiếm 69% dân số. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 70% nhưng chỉ có 24,5% có chứng chỉ chuyên môn. Hàng năm có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động.

Tuy nhiên, dự báo đến năm 2026, khoảng 40% lao động có tay nghề cao sẽ không còn phù hợp với công việc hiện tại. 30% người lao động buộc phải thay đổi công việc.

Việc nâng cao tay nghề cho người lao động cần được đặt ra, khi khảo sát cho thấy, hầu hết các ứng viên vào các vị trí như nhân viên nghiệp vụ, cán bộ kỹ thuật, thợ thủ công trong các doanh nghiệp đều thiếu các kỹ năng cần thiết. cần thiết, với tỷ lệ lần lượt là 80%, 83% và 40%.

Trích dẫn báo cáo Yêu cầu kỹ năng mềm của người lao động trong thời kỳ hội nhập của PGS.TS. PGS.TS Hà Nam Khánh Giao, Trường ĐH Tài chính – Marketing, cũng lưu ý, chương trình đào tạo kỹ năng nặng về lý thuyết. 83% sinh viên tốt nghiệp bị đánh giá là thiếu kỹ năng mềm. 37% sinh viên không tìm được việc làm phù hợp do tay nghề yếu.

40% phải được kèm cặp trong công việc. 41% cần thời gian để làm quen với công việc. 50% lao động tốt nghiệp trung học phổ thông không có kỹ năng cần thiết; Sinh viên tốt nghiệp đại học cũng không đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp. 13% phải được đào tạo lại hoặc bổ sung kỹ năng.

Các tổ chức nước ngoài tại Việt Nam cũng nhận xét rằng lao động Việt Nam thiếu kỹ năng mềm cho công việc. Hầu hết các doanh nghiệp nước ngoài đều phải đào tạo lại trước khi sử dụng. 80% nhân viên văn phòng ở Việt Nam thiếu kỹ năng.

Bà Vũ Thị Quyên, Nhà sáng lập kiêm Tổng Giám đốc Công ty We Edit nhận định, thực tế giới trẻ còn thiếu kỹ năng mềm để đồng hành cùng doanh nghiệp. Khi làm việc với những người lao động thiếu kỹ năng mềm, lãnh đạo doanh nghiệp cảm thấy rất “cô đơn”.

Doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc hướng dẫn lao động trẻ làm việc và giao tiếp. Để trình bày đơn giản một file word, excel thì phải có người “cầm tay chỉ việc” cho những người thợ trẻ.

CẦN SỰ HỢP TÁC CỦA NGÀNH TƯ NHÂN VÀ CHÍNH PHỦ

Đại diện lãnh đạo các doanh nghiệp đều thừa nhận, ngoài kỹ năng cứng, kỹ năng mềm quyết định 75% sự thành công của nhân viên. Các kỹ năng cơ bản và cần thiết nhất của người lao động là giao tiếp để người khác hiểu ý mình, phối hợp làm việc nhóm, xây dựng mối quan hệ với đối tác, tư duy sáng tạo, công nghệ thông tin, cập nhật kiến ​​thức mới. … Nhưng nhiều công nhân không thể đáp ứng được.

Đại diện VCCI cho biết, bối cảnh thế giới đang thay đổi nhanh chóng, đặc biệt là về công nghệ. Do đó, lực lượng lao động trẻ cũng cần nhanh chóng được trang bị các kỹ năng mềm, kỹ năng chuyển đổi, kỹ năng số để có thể thích ứng với yêu cầu của cuộc cách mạng 4.0.

Nghiên cứu “Đánh giá khoảng cách về kỹ năng nghề nghiệp và thực hành tốt của doanh nghiệp nhằm nâng cao kỹ năng cho thanh niên yếu thế và dễ bị tổn thương” do VCCI và UNICEF thực hiện vào tháng 9/2020 cũng cho thấy trên toàn cầu, kỹ năng mềm ngày càng có giá trị và cần thiết hơn kỹ năng kỹ thuật. do ảnh hưởng của số hóa và tự động hóa.

Vì vậy, theo bà Lan Anh, để tăng năng suất lao động trong giai đoạn tới chủ yếu phải dựa vào yếu tố đổi mới sáng tạo, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ mới. Muốn đổi mới, sáng tạo thì phải quan tâm đến phát triển nguồn nhân lực nói chung, đặc biệt là phát triển kỹ năng nghề nghiệp của người lao động, nhất là lao động trẻ.

Bà Lesley Miller, Phó đại diện UNICEF tại Việt Nam, cũng thừa nhận, nghiên cứu tại Việt Nam cho thấy nhiều thanh thiếu niên thiếu kỹ năng kỹ thuật số và kỹ năng chuyển đổi số, và tình trạng này đặc biệt nghiêm trọng đối với trẻ vị thành niên. thanh thiếu niên từ 15 -18 tuổi.

Việc xây dựng các kỹ năng mềm ngay từ khi còn nhỏ, như kỹ năng giải quyết vấn đề, tư duy phản biện, làm việc nhóm và giao tiếp, giúp các bạn trẻ trở thành những người thích ứng và linh hoạt, đồng thời là sự bổ sung quan trọng cho các kỹ năng đặc thù của công việc.

UNICEF đánh giá cao vai trò không thể thiếu của khu vực doanh nghiệp trong việc thực hiện các quyền và đảm bảo phúc lợi của trẻ em và thanh niên.

Các doanh nghiệp có thể đóng vai trò hàng đầu bằng cách xác định và giải quyết các tác động của họ đối với trẻ em, đồng thời đưa quyền trẻ em vào hành động để phát triển bền vững. Đồng thời, sử dụng thế mạnh của mình để huy động và tác động đến tất cả các bên liên quan cùng chung tay hành động.

Kinh nghiệm và các nghiên cứu của UNICEF cũng cho thấy khu vực tư nhân có tiếng nói, năng lực, nguồn lực và sự đổi mới để hợp tác với các chính phủ, cộng đồng và thanh niên nhằm tác động đến chính sách. các chính sách, phát triển các chương trình có tác động, khả năng mở rộng, bền vững và đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai của thị trường lao động.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *