Nghệ thuật Việt Nam hiện đại: Tại sao lại là vấn đề bản sắc?

Rate this post

1. Khi xây dựng Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, Tổng Bí thư Trường Chinh đã nhấn mạnh phương hướng của nghệ thuật cách mạng nước ta là: “Kế thừa dân tộc, khoa học, hợp quần chúng”. Thời kỳ Đổi mới, chúng ta điều chỉnh theo tình hình mới: “Tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Định hướng này cho thấy Việt Nam vừa muốn bắt nhịp với những xu hướng nghệ thuật mới của thế giới, vừa muốn bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống. Nội dung của “Nâng cao” có bao gồm “Hiện đại”, “Thế giới đương đại”, “Khoa học” không? Và “bản sắc dân tộc” cũng có thể bao hàm cả “quần chúng nhân dân”, “quần chúng nhân dân”, theo cách hiểu khá phổ biến trước đây: Cái gì mà nhân dân hiểu thì ít nhiều mang tính dân tộc, thậm chí tính dân tộc cũng đồng nhất với văn học dân gian. Có một thời, những bức tranh của Ba Lan được các họa sĩ xã hội chủ nghĩa gọi là khó hiểu và kém tinh thần dân tộc. Các họa sĩ Ba Lan trả lời: Điều mà người Ba Lan hiểu là chủ nghĩa dân tộc Ba Lan.

Khai phá sức sáng tạo 2021

Dân tộc và bản sắc dân tộc trong nghệ thuật là những khái niệm rất khó xác định rõ ràng, và nhiều nghệ sĩ đã có những cách tiếp cận và lý giải khác nhau. Khi một số người cho rằng âm nhạc của Chopin ít mang tính dân tộc hơn vì ông sống quá nhiều ở Pháp, ông đã đáp lại bằng cách đi chơi piano và chơi một bản Mazurka. Tính dân tộc đôi khi được xác lập từ một cột mốc liên quan đến tác giả, tác phẩm cụ thể trong dòng chảy lịch sử của dân tộc đó – Chẳng hạn như trường hợp của Mikhail Glinka với nền âm nhạc cổ điển Nga. Tchaikovsky đã phải thốt lên rằng: “Tất cả âm nhạc cổ điển Nga đều đến từ Kamarinskaya” (một tác phẩm của Glinka). Béla Bartók và Zoltán Kodály tìm thấy bản sắc dân tộc trong huyền thoại cổ xưa về sự di cư của người Hungary từ châu Á sang châu Âu, cho biết: “Hungary hiện là một nhánh giới hạn có lịch sử hàng nghìn năm của nền văn hóa âm nhạc vĩ đại của châu Á, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong linh hồn của nhiều dân tộc sống trên một lãnh thổ rộng lớn trải dài từ Trung Quốc qua Trung Á đến Biển Đen. Kodály nhận ra rằng: “Các bài dân ca Hungary hầu hết sử dụng âm giai ngũ cung, âm giai đã bén rễ từ lưu vực sông Volga đến Trung Quốc”.

Gustav Mahler đã từng nói, “Truyền thống không phải là tôn vinh tro tàn, mà là duy trì ngọn lửa.” Quan điểm của chúng tôi về bản sắc dân tộc cũng đại khái theo hướng: Gồm Mạch (thời gian, lịch sử) và Trường (không gian, thời đại) – Cả hai đều có yếu tố di truyền theo thời gian và cấu tạo bởi thời đại.

2. “Advanced”, hiểu nôm na, nghĩa là những thứ mới mẻ, như sử dụng kính trong kiến ​​trúc, sắp đặt, trình diễn trong nghệ thuật, rap trong âm nhạc; và “Bản sắc bao la” là vì kèo, đầu đao, hoa văn rồng phượng, ca trù, xẩm… Kết hợp chúng với nhau là “Tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Giải pháp đó hiện đang rất thịnh hành trong mỹ thuật Việt Nam hiện nay, vừa hợp “chiêu”, vừa không phải suy nghĩ nhiều. Và những tác phẩm hybrid, chiết trung đã ra đời. Đây là những công trình có khung kèo, mái bê tông, vách kính; là những bài hát kết hợp đủ thể loại nhạc pop, rap, cổ điển, ca trù. Tuy thô sơ, không phải nghĩ nhiều nhưng cũng là một giải pháp. Chủ nghĩa chiết trung đã thực sự xuất hiện nhiều lần trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam, ví dụ như trong các công trình kiến ​​trúc theo phong cách Đông Dương thời Pháp thuộc, vừa mang tính “Vô cùng đích thực” vừa mang tính “Tiên tiến”. chịu ảnh hưởng của Pháp.

Nhưng chúng ta không nên dừng lại ở một nơi dễ dàng như vậy. Bản sắc cần vượt qua những hình thức cũ bên ngoài để khám phá sâu hơn nội hàm của cấu trúc văn hóa, mã di truyền nghệ thuật, tính cách dân tộc, thần thoại và tính cộng đồng. Một khi bản chất đã được nắm bắt, các hình thức mới sẽ được tiết lộ. Bản sắc – Tức là vừa tiếp nối mạch ngầm của quá khứ, vừa tạo nên câu chuyện của thời đại theo cách của cộng đồng họ.

3. Trong mọi giai đoạn của nghệ thuật cách mạng Việt Nam, văn nghệ sĩ luôn trăn trở trước vấn đề bản sắc dân tộc, bên cạnh xu thế chung của hiện thực xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế, bản thân hiện thực xã hội chủ nghĩa cũng coi trọng cả tính quần chúng và tính dân tộc, vì cội nguồn của dân tộc là nhân dân. Năm 1976, Trần Hữu Tiềm đã bàn về bản sắc kiến ​​trúc dân tộc từ góc độ cách mạng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta vẫn thấy được giá trị của nó trong thời kỳ toàn cầu hóa hiện nay:

“Kiến trúc là sản phẩm xã hội. Nó liên quan trực tiếp đến tính mạng con người. Nó gắn liền với lịch sử phát triển của dân tộc, với chế độ xã hội, với thực tiễn sản xuất và đời sống. Vì vậy, con người và chế độ xã hội quyết định phần lớn phong cách của một công trình kiến ​​trúc, của một đô thị.

Sau con người, sau xã hội, thiên nhiên là nhân tố quan trọng có tác động quyết định đến kiểu nhà dân tộc, nó làm cho cùng một dân tộc, nhưng ngôi nhà lại có những nét khác nhau từ địa phương này đến địa phương khác. mặt khác.

Lý thuyết có một loại kiến ​​trúc thế giới chung chung không thể đứng vững. Lý thuyết đó đã tạo ra những công trình kiến ​​trúc tầm thường và có giá trị thấp.

Ngôi nhà Việt Nam phải gắn liền với thiên nhiên, làm sao để môi trường bên trong ngôi nhà và thiên nhiên bên ngoài không tách rời nhau mà hài hòa với nhau. Bố cục không gian, hình thức kết cấu nhà, cửa đi, chấn song, lan can, mái hiên, lam chắn nắng, tường hoa chắn nắng phải thể hiện được đặc điểm khí hậu, thể hiện sự xuyên thấu, giao hòa giữa môi trường bên trong và thiên nhiên bên ngoài ngôi nhà. Những ngôi nhà trơ trọi, không cây cối với những bức tường nặng nề nặng nề hay những ô cửa kính lớn chói lọi của một số nhà máy hay trường học ở thủ đô giờ đây đã trở nên xa lạ với đất nước chúng ta.

Vào những năm cuối của thế kỷ 20, đã có nhiều cuộc tranh luận sôi nổi về bản sắc dân tộc trong giới mỹ thuật Việt Nam. Khi đó, xu hướng nghệ thuật đương đại phương Tây bắt đầu nở rộ như bèo trên mặt ao. Có lẽ, sau khi bị “kìm hãm” bởi hiện thực xã hội chủ nghĩa, Thái Bá Vân muốn đề cao tự do cá nhân nên đã đưa ra một “bản tuyên ngôn” mới: “Cá tính riêng biệt của mỗi nghệ sĩ là màu sắc dân tộc nguyên thủy, không có cá tính riêng của mỗi nghệ sĩ. nói chung là không có bản sắc dân tộc. ” Ngược lại, Quang Phong cho rằng bản sắc dân tộc phải bắt nguồn từ đời sống của người dân. Anh đã viết:

“Người sáng tạo trước hết yêu nghệ thuật vì nghệ thuật chứ không phải vì bản thân mình để làm nghệ thuật, vì nếu để cái ích kỷ nhỏ nhen này vào, anh ta sẽ bị nhiễm bệnh bất hiếu, tính cách lập dị thích phô trương. Người ta không bắt đầu làm nghệ thuật bằng cách tự thể hiện mình, mà tìm cách thể hiện sự chân thật trong vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống, và chỉ khi đó người nghệ sĩ mới thực sự thể hiện mình. Bị tách rời khỏi cuộc sống, xã hội, nghệ thuật không có cơ sở để phát triển, vô hình trung đầu óc chỉ có thể sản sinh ra một thứ “cảm hứng” giả tạo, mà Pushkin gọi là “điên rồ”, thể hiện những hoài bão. lang thang, tôi không biết mình đang đi đâu.

Bản sắc dân tộc là diện mạo, nhân cách của một bức tranh thống nhất trong cùng một trường phái, đại diện cho một quốc gia. Nó không thể giống hay bắt chước bất kỳ bức tranh nào khác trên thế giới ”.

4. Một câu hỏi đặt ra: Tại sao bản sắc dân tộc lại trở thành vấn đề xuyên suốt và hàng đầu trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam hiện đại (thậm chí xa hơn nữa là từ thời Trung đại)? – Chúng tôi đưa ra một vài giải thích sơ bộ như sau:

  • Thứ nhất, với vị trí địa lý nằm ở ranh giới giữa Đông Bắc Á và Đông Nam Á (cũng là nơi giao lưu văn hóa, di truyền từ Trung Quốc, Ấn Độ, Đông Nam Á), Việt Nam phải tìm cách đặt mình giữa các nền văn minh lớn xung quanh, vừa chịu ảnh hưởng và chống lại. Tình trạng “gồng mình” giữa vùng biển khiến con người phải tự vấn bản thể và chọn nơi ở cho mình;
  • Thứ hai, lịch sử chia cắt và thống nhất đất nước. Các cuộc phân tranh Bắc Nam giữa Đại Việt và Champa, Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam Cộng hòa đã tạo ra sự đa nguyên và chênh lệch văn hóa sau khi đất nước được thống nhất. Từ đó, nảy sinh nhu cầu tạo ra một bản sắc chung, đảm bảo phẩm giá của tất cả các tập đoàn trong thời kỳ hậu chiến;
  • Thứ ba, thuộc địa và hoàn cảnh tiếp nhận viện trợ. Nhu cầu về bản sắc có nghĩa là nhu cầu biết chính mình, biết người khác. Trên đường chạy, người lãnh đạo chỉ nhìn thấy bản thân mình, người đi sau nhìn thấy chính mình và những người khác, vì vậy người đi sau có ý thức mạnh mẽ hơn về bản sắc. Bản năng sinh tồn của người đến sau là tìm ra một con đường thành công khác với người đi trước, và bản sắc giống như chìa khóa. Trên thực tế, các nền nghệ thuật tiên phong, thống trị thế giới, kể cả các nước thuộc địa cũ, các nước dẫn đầu chiến tranh lạnh, hiếm khi đặt vấn đề bản sắc cho mình, nhưng các nước thuộc địa và nhận viện trợ như Việt Nam lại chú ý. Trước ánh sáng rực rỡ của “Nước Mẹ” (thực dân Pháp – cho An Nam), “Người bảo vệ” (Mỹ – cho Việt Nam Cộng hòa) và “Anh cả” (Liên Xô – cho VNDCCH), người Việt Nam phải quản lý để tìm hướng đi của riêng mình dựa trên vị trí của mình. Ngày nay, toàn cầu hóa (do phương Tây dẫn đầu) cũng là tác nhân kích thích sự tích cực tìm kiếm bản sắc nghệ thuật ở Việt Nam và nhiều nước khác, những người hoài nghi về thế giới đơn cực và toàn trị. đến một thế giới đa cực, nơi hệ thống giá trị của mỗi quốc gia cần được tôn trọng;
  • Thứ tư, tính cách mềm dẻo, linh hoạt của người Việt Nam. Có một câu tục ngữ rằng “Đi với phật tử mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo dài bằng giấy”, “Bầu thì tròn, ống thì dài”. Theo nghĩa tích cực, nó nhạy cảm và năng động. Hiểu theo nghĩa tiêu cực là ba phải, quanh co. Một quốc gia hành xử độc đoán như nước không đóng khung một bản thể cố định. Vì vậy, họ sẽ luôn tìm kiếm và định hình lại danh tính của mình.

  • Thứ năm, lòng yêu nước – Ở đây chúng tôi diễn giải khái niệm “lòng yêu nước” ở người Việt Nam theo địa lý nhân văn, nghĩa là tập trung vào mối quan hệ giữa con người với địa lý và môi trường sống. không cùng triều đại, thủ lĩnh, hệ tư tưởng). Đó là cảm giác yêu thích địa điểm (topophilia). Ca dao truyền miệng: “Đi thì nhớ quê, nhớ canh rau muống nhớ giá đỗ”, thành ngữ có câu: “Địa linh nhân kiệt”, “Tấc đất, tấc vàng”, Nhất Thanh viết: “Đất lề.” Thói quen quê hương ”, Chế Lan Viên:“ Đất đi, lòng người biến hóa ”… Cảm giác yêu nơi ở là một trạng thái tâm lý khá đặc trưng của người Việt Nam. ( Nhìn chung, đất nước ta rất hiếm có những chuyện hoang đường sợ hãi nơi chốn sợ hãi (topophobia) như “vùng đất chết”, “vùng đất quỷ dữ”) Vì lòng yêu nước, yêu nơi ở nên người Việt Nam rất có ý thức. bản sắc cộng đồng.

Vũ Hiệp
(Đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 07-2022)


Người giới thiệu:
1. Nhiều tác giả. Quốc gia của nghệ thuật tạo hình, NXB Văn hóa, 1976
2. Các Tạp chí Lý luận – Phê bình Văn học Nghệ thuật, Tạp chí Kiến trúc, Tạp chí Mỹ thuật

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *